Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016


NHẬN RA CHÚA




Lịch sử Giáo Hội đã minh chứng cho chúng ta biết về sự thù ghét, bách hại đang lúc Phêrô và Gioan giảng cho dân chúng (sau khi chữa lành người què), thì các tư tế, vị lãnh binh cai đền thờ và các người thuộc nhóm Sađốc áp tới, bực tức vì các ngài giảng dạy dân chúng và công bố việc Ðức Giêsu từ cõi chết sống lại” và họ đã bắt các ngài tống ngục.
Theo chân Chúa Giêsu các môn đệ của ngài cũng bị bắt bớ, đúng như lời Chúa phán: “Người ta sẽ tra tay bắt và ngược đãi anh em, nộp anh em cho các hội đường và bỏ tù, điệu anh em đến trước mặt vua chúa quan quyền vì danh Thầy” (Lc 21,12). Nhưng Ngài cũng bảo đảm: “Chính Thầy sẽ cho anh em ăn nói thật khôn ngoan, khiến tất cả địch thủ của anh em không tài nào chống chọi hay cãi lại được”(Lc 21,15).
Câu chuyện trong bài đọc một là một minh chứng hùng hồn cho lời hứa trên. “Phêrô được đầy Thánh Thần” và đã mạnh dạn rao giảng Đức Kitô cho những kẻ bắt bớ các ngài.
Điều này gợi cho tôi một suy nghĩ. Chính Chúa Phục Sinh là sức mạnh của Hội Thánh; chính Thánh Thần là sự khôn ngoan để che chở bảo vệ và làm cho Hội Thánh phát triển; phần tôi là thành phần của Hội Thánh hãy vững tin.

Thứ Sáu tuần Bát nhật Phục sinh
Lời Chúa: 
 Ga 21,1-14
1 Khi ấy, lúc các môn đệ đang ở bờ biển Tibêria, Chúa Giêsu lại hiện đến. Công việc đã xảy ra như sau: 2 Simon Phêrô, Tôma cũng gọi là Điđymô, Nathanael quê tại Cana xứ Galilêa, các con ông Giêbêđê, và hai môn đệ nữa đang ở với nhau. 3 Simon Phêrô bảo: "Tôi đi đánh cá đây". Các ông kia nói rằng: "Chúng tôi cùng đi với ông". Mọi người ra đi xuống thuyền. Nhưng đêm ấy các ông không bắt được con cá nào. 4 Lúc rạng đông, Chúa Giêsu hiện đến trên bờ biển, nhưng các môn đệ không biết là Chúa Giêsu. 5 Người liền hỏi: "Này các con, có gì ăn không?" Họ đồng thanh đáp: "Thưa không". 6 Chúa Giêsu bảo: "Hãy thả lưới bên hữu thuyền thì sẽ được". Các ông liền thả lưới và hầu không kéo nổi lưới lên, vì đầy cá. 7 Người môn đệ Chúa Giêsu yêu, liền nói với Phêrô: "Chính Chúa đó". Simon Phêrô nghe nói là Chúa, liền khoác áo vào, vì đang ở trần, rồi nhảy xuống biển. 8 Các môn đệ khác chèo thuyền vào và kéo lưới đầy cá theo, vì không còn xa đất bao nhiêu, chỉ độ hai trăm thước tay.
9 Khi các ông lên bờ, thấy có sẵn lửa than, trên để cá và bánh. 10 Chúa Giêsu bảo: "Các con hãy mang cá mới bắt được lại đây". 11 Simon Phêrô xuống thuyền kéo lưới lên bờ. Lưới đầy toàn cá lớn; tất cả được một trăm năm mươi ba con. Dầu cá nhiều đến thế, nhưng lưới không rách.
12 Chúa Giêsu bảo rằng: "Các con hãy lại ăn". Không ai trong đám ngồi ăn dám hỏi: "Ông là ai?" Vì mọi người đã biết là Chúa. 13 Chúa Giêsu lại gần, lấy bánh trao cho các môn đệ; Người cũng cho cá như thế. 14 Đây là lần thứ ba, Chúa Giêsu đã hiện ra với môn đệ khi Người từ cõi chết sống lại.
Lạy Chúa Giêsu Phục sinh, xin dạy chúng con biết phó thác mọi sự trong tay Ngài để Ngài dìu dắt và hướng dẫn. Amen.

Thứ Hai, 28 tháng 3, 2016

BÌNH AN CHO ANH EM


Bình an là quà tặng của Thiên Chúa dành cho con người. Tiếc thay, đôi khi con người không biết quý trọng món quà ấy của Chúa ban với nhiều lý do. Có thể là do tác động từ bên ngoài như: Cuộc sống sôi động, cuộc sống thiếu thành thật, cuộc sống quá bon chen. Ngoài ra, chúng ta đánh mất bình an là do chính bản thân như: Sự sợ hãi, sự lo âu, sự chán nản và những việc làm sai trái… dẫn đến lung lay đức tin, mất niềm hy vọng, mất niềm cậy trông vào Chúa.
Nhìn lại các tông đồ, các ông đã nhiều lần đánh mất bình an khi các ông xa Chúa. Cụ thể:
- Khi các ông gặp giông bão (Ga 6,16-21). Nhưng khi có Chúa hiện diện, lòng các ông cảm thấy bình an và hạnh phúc.
- Khi Chúa Giêsu bị bắt, bị đánh đòn và chết trên thập giá chắc chắn lòng các ông bất an – trốn vào phòng kín (Ga 20,18). Thấu hiểu được điều đó, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Ngài trao ban bình an cho các ông: ‘Bình an cho anh em’ (Ga 20,21).
Khi nhận được sự bình an của Thiên Chúa, các ông thay đổi cuộc sống vì thấy cuộc đời có ý nghĩa hơn như hai môn đệ trên đường về Emmau và các tông đồ khác. Đặc biệt, các ông cảm thấy cuộc đời rất hữu dụng và tràn đầy hạnh phúc khi ra đi rao giảng Tin Mừng của Chúa mà không sợ hãi như thánh Phêrô mạnh dạn nói với thượng hội đồng Do thái: ‘Vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta’ (Cv 5,9).
Thật vậy, vâng lời Thiên Chúa và giữ các điều Chúa truyền dạy là cách tốt nhất để chúng ta tìm được sự bình an và hạnh phúc như các tổ phụ, các tiên tri và các thánh dù họ gặp nhiều thử thách trong cuộc sống. Thử thách ở trần gian không ngăn cản bước đường tìm kiếm hạnh phúc mà Chúa ban cho họ, từ đó họ chia sẻ cho tha nhân. Đức Thánh Cha Phanxicô viết như sau: ‘Những ai đã mở cửa tâm hồn mình cho tình yêu của Thiên Chúa, đã nghe thấy giọng nói của Ngài và nhận được ánh sáng của Ngài, thì không thể giữ món quà này cho riêng mình. Vì khi đức tin được nghe và được thấy, nó cũng được truyền lại như lời nói và ánh sáng’ (Đức Phanxicô, Thông điệp Lumen Fidei, 37).
 

THỨ NĂM TUẦN BÁT NHẬT

Lời Chúa
Lc 24,35-48

Khi ấy, hai môn đệ thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào. Mọi người còn đứng bàn chuyện thì Chúa Giêsu hiện ra đứng giữa họ và phán: "Bình an cho các con! Này Thầy đây, đừng sợ". Nhưng mọi người bối rối tưởng mình thấy ma. Chúa lại phán: "Sao các con bối rối và lòng các con lo nghĩ như vậy? Hãy xem tay chân Thầy: chính Thầy đây! Hãy sờ mà xem: ma đâu có xương thịt như các con thấy Thầy có đây". Nói xong, Người đưa tay chân cho họ xem. Thấy họ còn chưa tin, và vì vui mừng mà bỡ ngỡ, Chúa hỏi: "Ở đây các con có gì ăn không?" Họ dâng cho Người một mẩu cá nướng và một tảng mật ong. Người ăn trước mặt các ông và đưa phần còn lại cho họ. Ðoạn Người phán: "Ðúng như lời Thầy đã nói với các con khi Thầy còn ở với các con, là: cần phải ứng nghiệm hết mọi lời đã ghi chép về Thầy trong luật Môsê, trong sách tiên tri và thánh vịnh". Rồi Người mở trí cho các ông am hiểu Kinh Thánh.
Người lại nói: "Có lời chép rằng: Ðấng Kitô sẽ phải chịu thương khó và ngày thứ ba Người sẽ từ cõi chết sống lại. Rồi phải nhân danh Người rao giảng sự thống hối và sự ăn năn để lãnh ơn tha tội cho muôn dân, bắt đầu từ thành Giêrusalem. Còn các con, các con sẽ làm chứng nhân về những điều ấy".

Mỗi người được Chúa trao ban món quà bình an, xin Chúa cho chúng con biết gìn giữ trong tâm hồn, nhất là biết trao ban cho anh em và cùng giúp nhau đạt tới bình an đích thực trên trời mà Chúa dành cho chúng CON . Amen

HAI ÔNG NHẬN RA NGƯỜI LÚC BẺ BÁNH


Trong bầu khí Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta đi lại đoạn đường của hai môn đệ trên đường Emmau.
Chúng ta không biết nhiều về hai môn đệ đi Emmau mà Luca nhắc tới, mà chỉ biết rằng Luca đã kể lại cho chúng ta nghe về hoàn cảnh và tâm trạng của hai ông. Hai ông đã tin tưởng Đức Giêsu Nadarét. Người đã khơi dậy trong họ niềm cậy trông. Thế nhưng, sau khi Đức Giêsu chết rồi, tất cả trở nên đen tối, thật sự là hết, chẳng còn gì. Tất cả những gì họ kỳ vọng nơi thầy mình là Giêsu, giờ đây thực sự tan rã. Giêsu chỉ còn như một giấc mộng đẹp. Trên đường về Emmau, chỉ toàn là đêm đen. Họ thất vọng hoàn toàn.
Nhìn lại cuộc đời mình, chúng ta cũng đã không ít lần vừa đi vừa than vắn thở dài, vì chúng ta chẳng thấy Chúa đâu nữa trong cuộc đời mình, Ngài hình như đã chết rồi. Giêsu mà mình tin tưởng và kỳ vọng đâu rồi? Tại sao Ngài không xuất hiện, khi chúng ta đang gặp khổ đau? Như hai môn đệ ngày xưa, chúng ta đang đi trên một con đường bất an, một con đường tràn đầy thương đau và hoàn toàn thất vọng.
"Đang lúc họ trò chuyện và bàn tán, thì chính Đức Giê-su tiến đến gần và cùng đi với họ". Nhưng hai môn đệ có nhận ra người khách bộ hành là Giê-su mới xuất hiện không? "Nhưng mắt họ còn bị ngăn cản, không nhận ra Người". Thầy mình mà lại không nhận ra? Phải chăng vì mắt họ vẫn còn bị "ghèn của buồn đau và thất vọng" che kín? Phải chăng Thầy của mình đã đổi hình biến dạng, nên dù gần đấy nhưng sao vẫn thấy xa, dù quen đấy nhưng sao vẫn là lạ.
Nhưng Chúa Giêsu cùng đi trên đường với họ. Và Người giải thích cho họ những lời Kinh Thánh liên quan đến Người, Người chiếu một tia sáng trên chính cuộc sống của họ. Người giúp họ hiểu được ý nghĩa sâu xa của điều họ đang sống.
Với Kinh Thánh, Chúa Giêsu Phục Sinh đã giúp hai khách bộ hành đi Emmau hiểu tất cả những gì liên quan đến Người và, qua việc giải thích này, Người chiếu một luồng sáng trên cuộc đời của họ. Người đem lại cho cuộc đời họ một ý nghĩa hoàn toàn mới. Sự hiện diện của Người đã tái sinh họ thành nhóm, thành Giáo Hội. Giờ đây họ sẵn sàng ra đi trên khắp các nẻo đường thế giới, để rao giảng cho các anh chị em của họ biết rằng, lịch sử đã đổi chiều và niềm vui mạnh hơn sự chết là điều có thể...
Nhìn lại cuộc đời mình, có những lúc chúng ta cũng bị ghèn của đau buồn đóng kín, đến nỗi niềm tin vào Chúa của chúng ta không còn "dung nhan" gì nữa. Mắt chúng ta chẳng còn có thể nhận ra đựơc tình yêu của Chúa và sự hiện diện của Ngài. Chúng ta cần phải làm gì đây? Gặp gỡ Đấng Phục Sinh sẽ làm cho lòng tin của chúng ta lớn lên. Qua việc học hỏi, lắng nghe lời Kinh Thánh, chúng ta sẽ dần dần nhận ra Ngài là ai đối với cuộc đời mình.
Nhận ra Chúa Kitô Phục Sinh, khám phá ra sự hiện diện của Người, luôn là một thách đố mỗi ngày. Nhận ra Đấng Phục Sinh, đó chính là một tác động khó khăn của đức tin. Sự nhận biết này luôn cần được sống và canh tân mỗi ngày, vì chúng ta là những lữ khách, những khách hành hương về Emmau cùng với Đức Kitô vào buổi chiều ngày Phục Sinh, trên con đường dài của cuộc đời.

Thứ Tư Trong Tuần Bát Nhật Lễ Phục Sinh
 Phúc Âm: Lc 24, 13-35
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.
Cùng ngày thứ nhất trong tuần, có hai môn đệ đi đến một làng tên là Emmaus, cách Giêrusalem độ sáu mươi dặm. Dọc đường, các ông nói với nhau về những việc vừa xảy ra. Ðang khi họ nói truyện và trao đổi ý kiến với nhau, thì chính Chúa Giêsu tiến lại cùng đi với họ, nhưng mắt họ bị che phủ nên không nhận ra Người. Người hỏi: "Các ông có truyện gì vừa đi vừa trao đổi với nhau mà buồn bã vậy?" Một người tên là Clêophas trả lời: "Có lẽ ông là khách hành hương duy nhất ở Giêrusalem mà không hay biết những sự việc vừa xảy ra trong thành mấy ngày nay". Chúa hỏi: "Việc gì thế?" Các ông thưa: "Sự việc liên can đến ông Giêsu quê thành Nadarét. Người là một vị tiên tri có quyền lực trong hành động và ngôn ngữ, trước mặt Thiên Chúa và toàn thể dân chúng. Thế mà các trưởng tế và thủ lãnh của chúng ta đã bắt nộp Người để xử tử và đóng đinh Người vào thập giá. Phần chúng tôi, chúng tôi vẫn hy vọng Người sẽ cứu Israel. Các việc ấy đã xảy ra nay đã đến ngày thứ ba rồi. Nhưng mấy phụ nữ trong nhóm chúng tôi, quả thật đã làm chúng tôi lo sợ. Họ đến mồ từ tảng sáng. Và không thấy xác Người, họ trở về nói đã thấy thiên thần hiện ra bảo rằng: Người đang sống. Vài người trong chúng tôi cũng ra thăm mồ và thấy mọi sự đều đúng như lời các phụ nữ đã nói; còn Người thì họ không gặp".
Bấy giờ Người bảo họ: "Ôi kẻ khờ dại, chậm tin các điều tiên tri đã nói! Chớ thì Ðấng Kitô chẳng phải chịu đau khổ như vậy rồi mới được vinh quang sao?" Ðoạn Người bắt đầu từ Môsê đến tất cả các tiên tri, giải thích cho hai ông tất cả các lời Kinh Thánh chỉ về Người. Khi gần đến làng hai ông định tới, Người giả vờ muốn đi xa hơn nữa. Nhưng hai môn đệ nài ép Người rằng: "Mời ông ở lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày sắp tàn". Người liền vào với các ông.
Ðang khi cùng các ông ngồi bàn, Người cầm bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho hai ông. Mắt họ sáng ra và nhận ra Người. Ðoạn Người biến mất. Họ bảo nhau: "Phải chăng lòng chúng ta đã chẳng sốt sắng lên trong ta khi Người đi đường đàm đạo và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta đó ư?" Ngay lúc ấy họ chỗi dậy trở về Giêrusalem, và gặp mười một tông đồ và các bạn khác đang tụ họp. Các vị đó bảo hai ông: "Thật Chúa đã sống lại, và đã hiện ra với Simon". Hai ông cũng thuật lại các việc đã xảy ra dọc đường và hai ông đã nhận ra Người lúc bẻ bánh như thế nào.
Cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin Chúa đồng hành với chúng con trên đường Phục Sinh. Xin Chúa giải thích cho trí lòng chậm hiểu của chúng con những điều trong Kinh Thánh liên quan đến Chúa. Xin cho chúng con khi càng tham dự Cử Hành Thánh Thể thì càng biết sống chia sẻ với các anh chị em của chúng con. Xin Chúa ở lại với chúng con mỗi khi trời xế chiều và đêm đổ xuống trong cõi lòng chúng con. Chúng con cần có Chúa để vững tâm bước đi trong đêm tối. Xin hãy ở lại với chúng con. A-men.

MARIA ĐƯỢC GỌI TÊN

  giaophanphucuong.org/ngay-29-03-2016--thu-ba-tuan-bat-nhat-phuc-sinh-1010

Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, khi ghi lại sự việc Chúa Giêsu Phục Sinh hiện ra với bà Maria Mác-đa-la, thánh sử Gioan không nhấn mạnh ở sự kiện Chúa phục sinh cho bằng bản chất hiện hữu mới của Đấng đã sống lại. Người sống lại, kết hợp mật thiết và đi vào vinh quang với Chúa Cha. Đồng thời Người hiện diện cách mới mẻ với những kẻ tin Người.

Như vậy, khi sống Mầu Nhiệm Phục Sinh là chúng ta cũng sống theo cách thế sự hiện diện mới mẻ trong Đức Kitô Phục Sinh. Tuy nhiên, sống theo cách thế hiện diện mới mẻ nghĩa là thế nào?

Chúng ta hãy nhìn vào Maria Mác-đa-la:

Chúa Giêsu hiện ra, nhưng bà đã không nhận ra, vì bà tưởng là người làm vườn nào đó. Nhưng khi Người gọi tên bà, bà mới nhận ra tiếng nói của Người.

Điều này chứng tỏ, chỉ có ơn Chúa ban, con người mới nhận biết được Thiên Chúa và nhận ra sự hiện diện của Người đang sống động và hiện hữu.

Khi ra mộ, trong tầm nhìn hữu hạn, bà Mác-đa-la chỉ nghĩ ai đó đã lấy xác của Thầy khi thấy ngôi mộ trống. Bà đã không nhớ có lần Đức Giêsu nói: “sau ba ngày, Người sẽ sống lại”.

Cũng vậy, bao lâu chúng ta còn dựa vào quan niệm hữu hạn và trần tục của mình, thì không thể nhận ra đuợc những thực tại siêu nhiên. Cần phải gạt bỏ mọi thành kiến, mọi suy nghĩ, suy tư theo kiểu con người, để tin vào Lời Chúa và những gì thuộc về Chúa mà thôi.

Qua câu chuyện Chúa hiện ra với bà Mác-đa-la, chúng ta nhận ra rằng: biết Chúa là biết bằng đức tin. Nhờ gạt bỏ đi những thành kiến, những lối suy nghĩ giới hạn của con người và dựa vào ánh sáng của Lời Chúa, Bà Mác-đa-la đã nhận ra Chúa hiện ra với Bà không chỉ là hình ảnh bên ngoài, nhưng còn là hiện diện sâu thẳm bên trong tâm hồn của Bà. Nhờ đó bà sống đức tin một cách sâu sắc hơn và trở thành khí cụ ra truyền về sự hiện ra của Đấng Phục Sinh trong cuộc đời.

Đó chính là cách thế người Kitô hữu sống sự hiện diện mới mẻ trong Đức Kitô Phục Sinh.


Ngày 29-03-2016 Thứ Ba Tuần Bát Nhật Phục Sinh

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô Theo Thánh Gioan (Ga 20,11-18)

11 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đứng ở ngoài, gần bên mộ, mà khóc. Bà vừa khóc vừa cúi xuống nhìn vào trong mộ,12 thì thấy hai thiên thần mặc áo trắng ngồi ở nơi đã đặt thi hài của Đức Giê-su, một vị ở phía đầu, một vị ở phía chân.13 Thiên thần hỏi bà: "Này bà, sao bà khóc? " Bà thưa: "Người ta đã lấy mất Chúa tôi rồi, và tôi không biết họ để Người ở đâu! "14 Nói xong, bà quay lại và thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng bà không biết là Đức Giê-su.15 Đức Giê-su nói với bà: "Này bà, sao bà khóc? Bà tìm ai? " Bà Ma-ri-a tưởng là người làm vườn, liền nói: "Thưa ông, nếu ông đã đem Người đi, thì xin nói cho tôi biết ông để Người ở đâu, tôi sẽ đem Người về."16 Đức Giê-su gọi bà: "Ma-ri-a! " Bà quay lại và nói bằng tiếng Híp-ri: "Ráp-bu-ni! " (nghĩa là "Lạy Thầy").17 Đức Giê-su bảo: "Thôi, đừng giữ Thầy lại, vì Thầy chưa lên cùng Chúa Cha. Nhưng hãy đi gặp anh em Thầy và bảo họ: "Thầy lên cùng Cha của Thầy, cũng là Cha của anh em, lên cùng Thiên Chúa của Thầy, cũng là Thiên Chúa của anh em"."18 Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ: "Tôi đã thấy Chúa", và bà kể lại những điều Người đã nói với bà.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn biết bỏ đi những lối sống cũ, để thay vào đó là một đời sống mới mẻ trong Đức Kitô Phục Sinh, nhờ đó chúng con sẽ trở nên những khí cụ rao giảng về sự phục sinh của Chúa trong cuộc đời này.

BÁO TIN CHO ANH EM




Hạnh phúc chỉ đi theo sau những bước chân của chúng ta khi đi tìm kiếm hạnh phúc. Hạnh phúc là hệ quả của sự dấn thân. Hạnh phúc không đến cho người ngồi chờ sung rụng, càng không đến cho người thất vọng, chán chường . .  .
        Tương tự như Maria Mađalêna, đã bao nhiêu lần chúng ta cũng không thấy được hạnh phúc vì chúng ta mang tâm trạng thất vọng, bi quan. Tin mừng cho ta thấy Maria đã không nhận ra Đức Giêsu bên ngôi mộ đá là bởi vì cô đang than khóc cho một nỗi mất mát trong quá khứ và những lo toan tính toán cho một tương lai không còn bóng dáng của Đức Giêsu. Tối thứ Năm trong tuần, cô nhận được hung tin: “Thầy đã bị bắt!”. Chiều thứ Sáu ngày hôm sau, chính mắt cô đã chứng kiến giây phút Đức Giêsu trút hơi thở cuối cùng. Sáng sớm của ngày thứ nhất trong tuần, cũng lại chính cô là người đầu tiên đã khám phá ra tảng đá che lấp cửa mộ của Đức Giêsu bị đẩy sang một bên, xác Ngài biến mất... 
        Tất cả sự việc đã làm cho cô bàng hoàng và rơi vào thất vọng. Thế nhưng, khi Chúa Giê-su phục sinh hiện đến với cô. Chúa Giê-su trao ban niềm vui cho cô, và mời gọi cô dấn thân về phía trước. “Hãy đi báo tin cho anh em Ta, phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta”.  Cô đã vượt qua nỗi sợ hãi, vượt qua nỗi thất vọng vì nhận ra Chúa đã phục sinh.

        
Thứ Hai tuần Bát nhật Phục sinh
Lời Chúa: 
 Mt 28,8-15
8 Khi ấy, các bà vội ra khỏi mồ vừa sợ lại vừa hớn hở vui mừng, chạy báo tin cho các môn đệ Chúa. 9 Và này Chúa Giêsu đón gặp các bà, Người nói: "Chào các bà". Các bà liền lại gần ôm chân Người và phục lạy. 10 Bấy giờ Chúa Giêsu bảo: "Các bà đừng sợ. Hãy đi báo tin cho các anh em Ta phải trở về Galilêa, rồi ở đó họ sẽ gặp Ta".
11 Đang khi các bà lên đường, thì mấy người lính canh vào thành báo tin cho các thượng tế biết tất cả những gì đã xảy ra. 12 Các thượng tế liền họp với các kỳ lão, và sau khi đã bàn định, họ cho lính một số tiền lớn 13 và bảo rằng: "Các anh hãy nói rằng: Ban đêm khi chúng tôi đang ngủ, thì môn đệ ông đến lấy trộm xác ông. 14Nếu việc này đến tai tổng trấn, chúng tôi sẽ thương lượng với ông, không để các anh phải phiền hà đâu". 15 Bọn lính canh nhận tiền và đã làm y như họ căn dặn chúng. Bởi thế, lời đó được phao truyền nơi người Do-thái cho đến ngày nay .

Lạy Chúa! Xin cho chúng con cũng nhận ra Chúa Phục sinh đang đồng hành với chúng con để có thể vượt qua những khó khăn, những thất bại hầu dấn thân tìm hạnh phúc qua việc loan truyền tin vui Chúa Phục sinh. Xin Chúa luôn nâng đỡ từng bước chân của chúng con. Amen

Thứ Bảy, 26 tháng 3, 2016


LOAN TRUYỀN TIN VUI CHÚA PHỤC SINH


Chúa Phục Sinh mang đến niềm vui.Trước nỗi lo sợ hoang mang của các bà phụ nữ, Thiên Thần Chúa đã trấn an các bà: “Người không còn ở đây. Người đã sống lại…” Biến cố Chúa Giêsu chịu chết, đã gây nên cho các bà phụ nữ cũng như hầu hết các tông đồ một nỗi hoang mang và lo sợ. Chính vì thế mà ngay khi Phục Sinh, Chúa muốn trấn an họ bằng cách làm cho các bà phụ nữ nhớ lại Lời Người đã nói khi còn sống: “Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại”.
 
Nhiệm vụ loan truyền Phúc Âm, tin mừng Chúa Phục SinhSau khi nhận ra Chúa Phục Sinh, nhờ sự soi dẫn của các Thiên Thần và Lời Chúa đã nói, các bà như được thúc đẩy để thực thi sứ mạng loan truyền Phúc Âm. “Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác.” Tin mừng Chúa Phục Sinh phải được loan báo cho mọi người, đó là lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ loan truyền Phúc Âm” (Ga 10,27).Chúa Giêsu đã chịu khổ hình, chịu chết trên Thánh Giá và đã Phục Sinh để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Đó là tin mừng lớn lao mà chúng ta phải tin nhận và loan báo cho mọi người.
Thứ Bảy Tuần Thánh - Canh thức vượt qua - Lễ vọng Phục Sinh
Lời Chúa: 
 Lc 24,1-12
1 Ngày thứ nhất trong tuần, vừa tảng sáng, các bà đi ra mồ mang theo những thuốc thơm đã dọn sẵn. 2 Thấy hòn đá đã lăn ra khỏi mồ, 3 nhưng bước vào, các bà không thấy xác Chúa Giêsu. 4 Đang khi các bà còn ngơ ngác không hiểu việc đó, thì có hai người đứng gần các bà, y phục sáng chói. 5 Các bà kinh hãi cắm mặt xuống đất, thì hai người lên tiếng bảo: "Tại sao các bà tìm người sống nơi những kẻ chết? 6 Người không còn ở đây. Người đã sống lại, các bà hãy nhớ lại Người đã nói với các bà thế nào khi Người còn ở xứ Galilêa. 7 Người đã nói: Con Người phải bị nộp vào tay những kẻ tội lỗi, bị đóng đinh vào thập giá và ngày thứ ba sẽ sống lại". 8 Và các bà nhớ lại những lời Người đã nói.
9 Bỏ mồ đi về, các bà tường thuật lại tất cả sự việc cho mười một Tông đồ và các người khác. 10 Các bà đó là Maria Mađalêna, Gioanna, Maria mẹ Giacôbê; và những người nữ khác cùng đi với họ cũng nói như vậy với các tông đồ. 11 Nhưng những lời đó, các ông cho là truyện vớ vẩn, nên các ông không tin. 12 Dầu vậy Phêrô cũng đứng dậy chạy ra mồ, nhưng khi cúi xuống nhìn, ông chỉ thấy những khăn liệm nằm đó và ông trở về nhà, rất đỗi ngạc nhiên về sự đã xảy ra. 
Lạy Chúa, Chúa đã đi đến cùng con đường vâng phục Thánh ý Chúa Cha, và đã san sẻ đến cùng thân phận kiếp người. Xin cho chúng con, từ nay, dù trong bất cứ cảnh ngộ nào của cuộc sống, cũng đừng bao giờ lãng quên rằng: ‘Chúa đã chết vì yêu con’. Để từ nay, chúng con biết sống cho Chúa và chỉ chết cho Chúa mà thôi. Amen

Thứ Năm, 24 tháng 3, 2016

MỌI SỰ ĐÃ HOÀN TẤT



LÀM CHỨNG CHO SỰ THẬT
“Tôi đã sinh ra và đã đến thế gian nhằm mục đích này: làm chứng cho sự thật. Ai đứng về phía sự thật thì nghe tiếng tôi.” (Ga 18,37)
Suy niệm: Đoạn Tin Mừng rất dài này có thể làm nhiều người bắt hụt hai từ rất quan trọng: “sự thật”! Chính vì sự thật này mà có ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Nhiều người trong chúng ta hôm nay cũng đã hỏi câu hỏi của Phi-la-tô: “Sự thật là gì?” Và cũng có nhiều người trong chúng ta hỏi mà không dám dấn thân tìm kiếm và sống cho tới cùng câu trả lời cho vấn nạn đó. Sự thật mà Thiên Chúa mạc khải không phải là một chân lý theo kiểu toán học như ‘hai với hai là bốn’. Không ai cần liều chết để làm chứng cho những chân lý kiểu này. Sự thật của Ki-tô giáo trước hết là một con người: Đức Giê-su Ki-tô, Đấng là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống. Sự thật này mời gọi lòng tin và thúc đẩy chứng tá. Tin để mình được sống và trao chứng tá để người cũng tin và được sống. Như thánh Gio-an, “biết mình nói sự thật để cả anh em nữa cũng tin.” Trong Chúa Thánh Thần, Giáo Hội thi hành sứ mạng thừa sai để làm chứng cho Sự Thật.
 “Các anh tìm ai? Họ đáp: Tìm Giêsu Nadarét. Đức Giêsu nói; đã bảo các anh là chính tôi đây. Vậy, các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi” (Ga 18,7-8)
Chúa Giêsu yêu thương toàn thể nhân loại và Người yêu thương đến cùng. Chính trong giờ nguy cấp nhất của Người; Người vẫn lo cho sự an toàn và sự sống của những con người mà Người đang yêu mến: “Các anh tìm bắt tôi, thì hãy để cho những người này đi”. Như trên Biển Hồ vào lúc canh tư các Tông Đồ vật lộn với sóng gió. Chúa Giêsu cũng đã đến : “Thầy đây đừng sợ”. Không những vậy Người còn trực tiếp cầu xin cùng Chúa Cha: “Con không còn ở trong thế gian nữa, nhưng họ, họ ở trong thế gian; phần con, con đến cùng Cha. Lạy Cha chí thánh, xin gìn giữ các môn đệ trong Danh Cha mà Cha đã ban cho con, để họ nên một như chúng ta” (Ga 17,11) và Người còn tiếp tục cầu xin: “Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần” (Ga 17,15).
Thứ Sáu Tuần Thánh - Tưởng niệm cuộc thương khó của Chúa
Lời Chúa: 
 Ga 18,1--19,42
(C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu)
C. Bài Thương Khó Đức Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu đi với môn đệ sang qua suối Xêrông, ở đó có một khu vườn, Người vào đó cùng với các môn đệ. Giuđa, tên phản bội, đã biết rõ nơi đó, vì Chúa Giêsu thường đến đấy với các môn đệ. Nên Giuđa dẫn tới một toán quân cùng với vệ binh do các thượng tế và biệt phái cấp cho, nó đến đây với đèn đuốc và khí giới. Chúa Giêsu đã biết mọi sự sẽ xảy đến cho Mình, nên Người tiến ra và hỏi chúng: J."Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa lại: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu bảo: "Ta đây". C. Giuđa là kẻ định nộp Người cũng đứng đó với bọn chúng. Nhưng khi Người vừa nói "Ta đây", bọn chúng giật lùi lại và ngã xuống đất. Người lại hỏi chúng: J."Các ngươi tìm ai?" C. Chúng thưa: S. "Giêsu Nadarét". C. Chúa Giêsu đáp lại: "Ta đã bảo các ngươi rằng Ta đây! Vậy nếu các ngươi tìm bắt Ta, thì hãy để cho những người này đi". C. Như thế là trọn lời đã nói: "Con chẳng để mất người nào trong những kẻ Cha đã trao phó cho Con". Bấy giờ Simon Phêrô có sẵn thanh gươm, liền rút ra đánh tên đầy tớ vị thượng tế, chém đứt tai bên phải. Đầy tớ ấy tên là Mancô. Nhưng Chúa Giêsu bảo Phêrô rằng: J. "Hãy xỏ gươm vào bao. Chén Cha Ta đã trao lẽ nào Ta không uống!" C. Bấy giờ, toán quân, trưởng toán và vệ binh của người Do-thái bắt Chúa Giêsu trói lại, và điệu Người đến nhà ông Anna trước, vì ông là nhạc phụ của Caipha đương làm thượng tế năm ấy. Chính Caipha là người đã giúp ý kiến này cho người Do-thái: để một người chết thay cho cả dân thì lợi hơn. Còn Phêrô và môn đệ kia vẫn theo Chúa Giêsu. Môn đệ sau này quen vị thượng tế nên cùng với Chúa Giêsu vào trong sân vị thượng tế, còn Phêrô đứng lại ngoài cửa. Vì thế, môn đệ kia là người quen với vị thượng tế, nên đi ra nói với người giữ cửa và dẫn Phêrô vào. Cô nữ tì gác cửa liền bảo Phêrô: S. "Có phải ông cũng là môn đệ của người đó không?" C. Ông đáp: S. "Tôi không phải đâu".
C. Đám thủ hạ và vệ binh có nhóm một đống lửa và đứng đó mà sưởi vì trời lạnh, Phêrô cũng đứng sưởi với họ. Vị thượng tế hỏi Chúa Giêsu về môn đệ và giáo lý của Người. Chúa Giêsu đáp: J. "Tôi đã nói công khai trước mặt thiên hạ, Tôi thường giảng dạy tại hội đường và trong đền thờ, nơi mà các người Do-thái thường tụ họp, Tôi không nói chi thầm lén cả. Tại sao ông lại hỏi Tôi? Ông cứ hỏi những người đã nghe Tôi về những điều Tôi đã giảng dạy. Họ đã quá rõ điều Tôi nói". C. Nghe vậy, một tên vệ binh đứng đó vả mặt Chúa Giêsu mà nói: S. "Anh trả lời vị thượng tế như thế ư". C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nếu Ta nói sai, hãy chứng minh điều sai đó; mà nếu Ta nói phải, thì tại sao anh lại đánh Ta?" C. Rồi Anna cho giải Người vẫn bị trói đến cùng vị thượng tế Caipha. Lúc ấy Phêrô đang đứng sưởi. Họ bảo ông: S. "Có phải ông cũng là môn đệ người đó không?" C. Ông chối và nói: S. "Tôi không phải đâu".C. Một tên thủ hạ của vị thượng tế, có họ với người bị Phêrô chém đứt tai, cãi lại rằng: S. "Tôi đã chẳng thấy ông ở trong vườn cùng với người đó sao?" C. Phêrô lại chối nữa, và ngay lúc đó gà liền gáy.
Bấy giờ họ điệu Chúa Giêsu từ nhà Caipha đến pháp đình. Lúc đó tảng sáng và họ không vào pháp đình để khỏi bị nhơ bẩn và để có thể ăn Lễ Vượt Qua. Lúc ấy Philatô ra ngoài để gặp họ và nói: S. "Các ngươi tố cáo người này về điều gì". C. Họ đáp: S."Nếu hắn không phải là tay gian ác, chúng tôi đã không nộp cho quan". C. Philatô bảo họ: S. "Các ông cứ bắt và xét xử theo luật của các ông". C. Nhưng người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi chẳng có quyền giết ai cả". C. Thế mới ứng nghiệm lời Chúa Giêsu đã nói trước: Người sẽ phải chết cách nào. Bấy giờ Philatô trở vào pháp đình gọi Chúa Giêsu đến mà hỏi: S. "Ông có phải là Vua dân Do-thái không?" C.Chúa Giêsu đáp: J. "Quan tự ý nói thế, hay là có người khác nói với quan về tôi?" C.Philatô đáp: S. "Ta đâu phải là người Do-thái. Nhân dân ông cùng các thượng tế đã trao nộp ông cho ta. Ông đã làm gì?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Nước tôi không thuộc về thế gian này. Nếu nước tôi thuộc về thế gian này, thì những người của tôi đã chiến đấu để tôi không bị nộp cho người Do-thái, nhưng nước tôi không thuộc chốn này". C. Philatô hỏi lại: S. "Vậy ông là Vua ư?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan nói đúng: Tôi là Vua. Tôi sinh ra và đến trong thế gian này là chỉ để làm chứng về Chân lý. Ai thuộc về Chân lý thì nghe tiếng tôi". C. Philatô bảo Người: S. "Chân lý là cái gì?" C.Nói lời này xong, ông lại ra gặp người Do-thái và bảo họ: S. "Ta không thấy nơi người này có lý do để khép án. Nhưng theo tục lệ các ngươi, ta sẽ phóng thích cho các ngươi một tù nhân vào dịp Lễ Vượt Qua. Vậy các ngươi có muốn ta phóng thích Vua Do-thái cho các ngươi chăng?" C. Họ liền la lên: S. "Không phải tên đó, nhưng là Baraba". C. Baraba là một tên cướp. Bấy giờ Philatô truyền đem Chúa Giêsu đi mà đánh đòn Người. Binh sĩ kết một triều thiên bằng gai nhọn đội lên đầu Người và nói:S. "Tâu Vua Do-thái!" C. Và vả mặt Người. Philatô lại ra ngoài và nói: S. "Đây ta cho dẫn người ấy ra ngoài cho các ngươi để các ngươi biết rằng ta không thấy nơi người ấy một lý do để kết án". C. Bấy giờ Chúa Giêsu đi ra, đội mão gai và khoác áo đỏ. Philatô bảo họ: S. "Này là Người". C. Vừa thấy Người, các thượng tế và vệ binh liền la to: S. "Đóng đinh nó vào thập giá! Đóng đinh nó vào thập giá!" C. Philatô bảo họ:S. "Đấy các ngươi cứ bắt và đóng đinh ông vào thập giá, phần ta, ta không thấy lý do nào kết tội ông". C. Người Do-thái đáp lại: S. "Chúng tôi đã có luật, và theo luật đó nó phải chết, vì nó tự xưng là Con Thiên Chúa". C. Nghe lời đó Philatô càng hoảng sợ hơn. Ông trở vào pháp đình và nói với Chúa Giêsu: S. "Ông ở đâu đến?"
C. Nhưng Chúa Giêsu không đáp lại câu nào. Bấy giờ Philatô bảo Người: S. "Ông không nói với ta ư? Ông không biết rằng ta có quyền đóng đinh ông vào thập giá và cũng có quyền tha ông sao?" C. Chúa Giêsu đáp: J. "Quan chẳng có quyền gì trên tôi, nếu từ trên không ban xuống cho, vì thế nên kẻ nộp tôi cho quan, mắc tội nặng hơn". C. Từ lúc đó Philatô tìm cách tha Người. Nhưng người Do-thái la lên: S. "Nếu quan tha cho nó, quan không phải là trung thần của Xêsa, vì ai xưng mình là vua, kẻ đó chống lại Xêsa". C. Philatô vừa nghe lời đó, liền cho điệu Chúa Giêsu ra ngoài rồi ông lên ngồi toà xử, nơi gọi là Nền đá, tiếng Do-thái gọi là Gabbatha. Lúc đó vào khoảng giờ thứ sáu ngày chuẩn bị Lễ Vượt Qua. Philatô bảo dân: S. "Đây là vua các ngươi". C. Nhưng họ càng la to: S. "Giết đi! Giết đi! Đóng đinh nó đi!" C. Philatô nói:S. "Ta đóng đinh vua các ngươi ư?" C. Các thượng tế đáp: S. "Chúng tôi không có vua nào khác ngoài Xêsa". C. Bấy giờ quan giao Người cho họ đem đóng đinh.
Vậy họ điệu Chúa Giêsu đi. Và chính Người vác thập giá đến nơi kia gọi là Núi Sọ, tiếng Do-thái gọi là Golgotha. Ở đó họ đóng đinh Người trên thập giá cùng với hai người khác nữa: mỗi người một bên, còn Chúa Giêsu thì ở giữa. Philatô cũng viết một tấm bảng và sai đóng trên thập giá. Bảng mang những hàng chữ này: "Giêsu, Nadarét, vua dân Do-thái". Nhiều người Do-thái đọc được bảng đó, vì nơi Chúa Giêsu chịu đóng đinh thì gần thành phố, mà bảng viết thì bằng tiếng Do-thái, Hy-lạp và La-tinh. Vì thế các thượng tế đến thưa với Philatô:
S. Xin đừng viết "Vua dân Do Thái", nhưng nên viết: "Người này đã nói: 'Ta là vua dân Do-thái'". C. Philatô đáp: S. "Điều ta đã viết là đã viết". C. Khi quân lính đã đóng đinh Chúa Giêsu trên thập giá rồi thì họ lấy áo Người chia làm bốn phần cho mỗi người một phần, còn cái áo dài là áo không có đường khâu, đan liền từ trên xuống dưới. Họ bảo nhau: S. "Chúng ta đừng xé áo này, nhưng hãy rút thăm xem ai được thì lấy". C. Hầu ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Chúng đã chia nhau các áo Ta và đã rút thăm áo dài của Ta". Chính quân lính đã làm điều đó.
Đứng gần thập giá Chúa Giêsu, lúc đó có Mẹ Người, cùng với chị Mẹ Người là Maria, vợ ông Clopas và Maria Mađalêna. Khi thấy Mẹ và bên cạnh có môn đệ Người yêu, Chúa Giêsu thưa cùng Mẹ rằng: J. "Hỡi Bà, này là con Bà". C. Rồi Người lại nói với môn đệ: J. "Này là Mẹ con". C. Và từ giờ đó môn đệ đã lãnh nhận Bà về nhà mình. Sau đó, vì biết rằng mọi sự đã hoàn tất, để lời Kinh Thánh được ứng nghiệm, Chúa Giêsu nói: J. "Ta khát!" C. Ở đó có một bình đầy dấm. Họ liền lấy miếng bông biển thấm đầy dấm cắm vào đầu ngành cây hương thảo đưa lên miệng Người. Khi đã nếm dấm rồi, Chúa Giêsu nói: J. "Mọi sự đã hoàn tất". C. Và Người gục đầu xuống trút hơi thở cuối cùng.
(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)
Hôm đó là ngày chuẩn bị lễ: để tội nhân khỏi treo trên thập giá trong ngày Sabbat, vì ngày Sabbat là ngày đại lễ, nên người Do-thái xin Philatô cho đánh dập ống chân tội nhân và cho cất xác xuống. Quân lính đến đánh dập ống chân của người thứ nhất và người thứ hai cùng chịu treo trên thập giá với Người. Nhưng lúc họ đến gần Chúa Giêsu, họ thấy Người đã chết, nên không đánh dập ống chân Người nữa, tuy nhiên một tên lính lấy giáo đâm cạnh sườn Người; tức thì máu cùng nước chảy ra. Kẻ đã xem thấy thì đã minh chứng, mà lời chứng của người đó chân thật, và người đó biết rằng mình nói thật để cho các người cũng tin nữa. Những sự việc này đã xảy ra để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: "Người ta sẽ không đánh dập một cái xương nào của Người". Lời Kinh Thánh khác rằng: "Họ sẽ nhìn xem Đấng họ đã đâm thâu qua".
Sau đó, Giuse người xứ Arimathia, môn đệ Chúa Giêsu, nhưng thầm kín vì sợ người Do-thái, xin Philatô cho phép cất xác Chúa Giêsu. Philatô cho phép. Và ông đến cất xác Chúa Giêsu. Nicôđêmô cũng đến, ông là người trước kia đã đến gặp Chúa Giêsu ban đêm. Ông đem theo chừng một trăm cân mộc dược trộn lẫn với trầm hương. Họ lấy xác Chúa Giêsu và lấy khăn bọc lại cùng với thuốc thơm theo tục khâm liệm người Do-thái. Ở nơi Chúa chịu đóng đinh có cái vườn và trong vườn có một ngôi mộ mới, chưa chôn cất ai. Vì là ngày chuẩn bị lễ của người Do-thái và ngôi mộ lại rất gần, nên họ đã mai táng Chúa Giêsu trong mộ đó.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã dạy chúng con: “Không có tình thương nào lớn hơn tình thương của người hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu” (Ga 15, 13); và Chúa đã hành động cụ thể để nêu gương cho chúng con. Chúng con phải cảm tạ ơn Chúa dường nào, vì Chúa đã thương chỉ cho chúng con con đường thẳng và vững chắc để lên nước Trời là Con đường Thánh Giá mà Chúa đã giao cho mỗi người chúng con. Amen

YÊU ĐẾN CÙNG

Lm Inhaxiô Trần Ngà 
“Xem Trời giải nghĩa yêu”
(Suy niệm thứ năm tuần thánh theo Tin Mừng Gioan 13, 1-15)

Để nghe tơ liễu run trong gió
và để xem Trời giải nghĩa yêu”(Hàn Mặc Tử)

Người ta đề cập rất nhiều về tình yêu, nhưng có lẽ không mấy ai hiểu cho đúng tình yêu là gì.
Ngay cả thi sĩ Xuân Diệu, người được xem là thi sĩ của tình yêu, có những cảm nhận rất tinh tế về tình yêu và tâm lý con người, nhưng cũng thú nhận là không thể giải nghĩa được tình yêu. Ông viết:
"Làm sao giải nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
bằng mây nhè nhẹ  gió hiu hiu."
Và khi con người không lý giải được tình yêu thì có lẽ phải viện tới Trời. Vì thế, Hàn Mặc Tử, một nhà thơ tài hoa công giáo, khuyên chúng ta - qua bài "Đà Lạt trăng mờ" - như sau:
"Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
để nghe dưới đáy, nước hồ reo
để nghe tơ liễu run trong gió
và để xem Trời giải nghĩa yêu."
"Và để xem Trời giải nghĩa yêu!"  Đúng vậy, Thiên Chúa là Tình Yêu. Tình Yêu là bản chất của Thiên Chúa nên chỉ có Thiên Chúa mới biết thế nào là yêu và chỉ có Ngài mới có đủ thẩm quyền để "giải nghĩa yêu".
           
Chúa Giê-su "giải nghĩa yêu" khi bày tỏ cho ông Ni-cô-đê-mô biết: "Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một Người để tất cả những ai tin vào Con của Người thì không phải hư mất nhưng được sống đời đời" (Ga 3,16).
Chúa Giê-su cũng đã "giải nghĩa yêu" khi Ngài nói: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu mình." (Ga 15, 13)
Thế là ý nghĩa của tình yêu giờ đây đã được sáng tỏ: yêu thương là trao ban, là hy sinh, là cống hiến, là cho đi...
Thiên Chúa Cha yêu thương thế gian nên đã trao ban Người Con Một cho thế gian; Chúa Giê-su đã yêu thương thế gian nên Ngài đã hy sinh tính mạng cho thế gian.
Nhưng Chúa Giê-su không chỉ giải nghĩa yêu bằng những  lời hoa mĩ. Ngài thể hiện lòng yêu thương qua cuộc sống. Tin Mừng hôm nay cho biết rằng: "Ngài vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Ngài yêu thương họ đến cùng.. Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo ngoài ra, và lấy khăn thắt lưng. Rồi Đức Giê-su đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau." (Ga 13, 1.4-5).

Thế mới hiểu rằng:
Yêu là hạ mình làm tôi tớ người khác, là "đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau."
Yêu là bẻ thân mình làm bánh trao ban cho bạn: "Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con."
Yêu là rót máu mình như rượu hiến ban cho người khác được sống còn: "Nầy là Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội."
Yêu là nộp mình chết thay cho người mình yêu thương được sống: "Thà một người chết thay cho dân còn hơn là để toàn dân phải bị tiêu diệt" (Ga 11, 50).
 Lm Inhaxiô Trần Ngà

Thứ Năm Tuần Thánh - Thánh lễ tiệc ly
Lời Chúa: 
 Ga 13,1-15
1 Trước ngày Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu biết đã đến giờ Mình phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người vốn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn đang ở thế gian, thì đã yêu thương họ đến cùng. 2 Sau bữa ăn tối, ma quỷ gieo vào lòng Giuđa Iscariô, con Simon, ý định nộp Người. 3 Người biết rằng Chúa Cha đã trao phó mọi sự trong tay mình, và vì Người bởi Thiên Chúa mà đến và sẽ trở về cùng Thiên Chúa. 4 Người chỗi dậy, cởi áo, lấy khăn thắt lưng, 5 rồi đổ nước vào chậu; Người liền rửa chân cho các môn đệ và lấy khăn thắt lưng mà lau. 6 Vậy Người đến chỗ Simon Phêrô, ông này thưa Người rằng: "Lạy Thầy, Thầy định rửa chân cho con ư?" 7 Chúa Giêsu đáp: "Việc Thầy làm bây giờ con chưa hiểu, nhưng sau sẽ hiểu". 8 Phêrô thưa lại: "Không đời nào Thầy sẽ rửa chân cho con". Chúa Giêsu bảo: "Nếu Thầy không rửa chân cho con, con sẽ không được dự phần với Thầy". 9 Phêrô liền thưa: "Vậy xin Thầy hãy rửa không những chân con, mà cả tay và đầu nữa". 10 Chúa Giêsu nói: "Kẻ mới tắm rồi chỉ cần rửa chân, vì cả mình đã sạch. Tuy các con đã sạch, nhưng không phải hết thảy đâu". 11 Vì Người biết ai sẽ nộp Người nên mới nói: "Không phải tất cả các con đều sạch đâu".
12 Sau khi đã rửa chân cho các ông, Người mặc áo lại, và khi đã trở về chỗ cũ, Người nói: "Các con có hiểu biết việc Thầy vừa làm cho các con chăng? 13 Các con gọi Ta là Thầy và là Chúa thì phải lắm, vì đúng thật Thầy như vậy. 14 Vậy nếu Ta là Chúa và là Thầy mà còn rửa chân cho các con, thì các con cũng phải rửa chân cho nhau. 15 Vì Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con".
Lạy Chúa Giê-su,
Thế ra lâu nay chúng con đã ngộ nhận rất nhiều về tình yêu.
Chúng con tưởng rằng yêu là say mê, là khai thác, là chiếm đoạt đối tượng mình yêu mến.
Hôm nay, nhờ bài học yêu thương Chúa dạy, chúng con mới hiểu rằng tình yêu đúng nghĩa là hy sinh, là quên mình để phục vụ, là cống hiến không ngừng cho tha nhân được hạnh phúc; và câu tỏ tình hay nhất, chân thật nhất, ý nghĩa nhất trên cõi đời nầy là câu tỏ tình của Chúa trong bữa tiệc ly:
"Nầy là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con... Nầy là chén Máu Thầy sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội."

Và hôm nay, khi mời gọi "các con hãy làm việc nầy mà nhớ đến Thầy", Chúa tha thiết kêu mời chúng con hãy yêu nhau theo cách yêu của Chúa; Chúa muốn chúng con nói lời yêu thương theo cách thức Chúa đã tỏ bày, nghĩa là:
Nầy là thời giờ của tôi, sức lực tôi, tim óc tôi, xin hy sinh vì bạn.
Nầy là thân xác tôi, trọn cuộc sống tôi, xin cống hiến cho cha mẹ, cho người bạn đời, cho con cái và cho tha nhân."

Lm Inhaxiô Trần Ngà